C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I Lênin - những lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới đều là những người giỏi nhiều ngoại ngữ. Điều đó đã giúp các ông rất nhiều trong hoạt động khoa học, hoạt động lý luận và vận động cách mạng.
Sinh thời, Mác biết thành thạo mười ngoại ngữ, ''đã đọc hầu hết các sách quan trọng của thời đại mình'', đọc được tài liệu bằng tất cả các thứ tiếng châu Âu, còn tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Anh đều viết rất giỏi.
Ăngghen biết đến 21 thứ tiếng, trong đó có cả những tiếng cổ như tiếng Pháp cổ, tiếng Tây Ban Nha cổ.
Mác và Ăngghen khi trên 50 tuổi, do yêu cầu phải nghiên cứu những vấn đề về nước Nga mà hai ông đã học thêm tiếng Nga. Chỉ trong thời gian ngắn hai ông đã đọc được nhiều tài liệu và tác phẩm văn học từ nguyên gốc Nga.
Còn Lênin thì biết thành thạo, đọc và dịch được tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Pháp, đọc được tiếng Ba Lan và tiếng Ý.
Các ông đều là những tấm gương lớn về trau dồi ngoại ngữ, công cụ giao tiếp quan trọng nhất của nhân loại.
Bác Hồ của chúng ta cũng là một tấm gương học tập tiếng nước ngoài thành công trong điểu kiện vô cùng gian khổ và thiếu thốn.
Hoàn cảnh có khác nhau nhưng các ông đều có chung một mục đích đấu tranh cách mạng giải phóng loài người khỏi áp bức, bóc lột; vì một xã hội văn minh, vì tình hữu nghị lâu dài giữa các dân tộc. Các ông đều giống nhau ở ý chí tự học không bao giờ ngừng.
Dưới đây là những câu chuyện về tấm gương Bác Hồ học tập và sử dụng tiếng nước ngoài .
Bác Hồ với tiếng Hán cổ và hiện đại
Tháng 8-1942, Bác có việc sang Trung Quốc thì bị bọn Quốc dân đảng bắt. Sau khi bị chúng trói, giải đi suốt mười tám ngày, từ trại giam này đến trại giam khác, chúng đưa Bác về giam ở Liễu Châu. Đấy không phải là một trại giam chính cống, mà chỉ là một ''cấm bế thất'', một phòng giam nhỏ hẹp ngay bên cạnh đội cảnh vệ của tướng Trương Phát Khuê. Chỉ một mình Bác bị nhốt ở đó. Lâu lâu mới có một vài sĩ quan Quốc dân đảng bị phạt vào đó năm, bảy ngày. Bác lợi dụng những dịp đó để học tiếng “quan”. Trong thời gian 14 tháng bị giam cầm ở Quảng Tây, Bác đã viết “Nhật ký trong tù”. Cuốn sổ nhật ký đó to bằng bàn tay, dày 47 trang. Trên trang đầu ghi bốn chữ Hán ''Ngục trung nhật ký'' kèm theo bốn câu thơ và hình vẽ người tù hai cổ tay bị xích. Nhật ký gồm hơn một trăm bài thơ chữ Hán bất hủ. Với Bác, đó chỉ là một việc làm bằng tay trái”, là một sản phẩm bất đắc dĩ vì trong “ngục tối biết làm chi đây'', nhưng lại là một tác phẩm nổi tiếng trên thế giới. Năm 1960, Nhật ký trong tù chính thức ra mắt bạn đọc trong và ngoài nước. Mấy chục năm qua, tập thơ được in lại nhiều lần ở trong nước, trên thế giới, nó được dịch ra nhiều thứ tiếng như tiếng Anh, Pháp, Nga, Đức. Ở Mỹ, ngày 11-8-1971, một nhà xuất bản chuyên ấn hành loại sách phổ cập đã đặt in 50 vạn cuốn Nhật ký trong tù. Một tập thơ được xuất bản với số lượng lớn như vậy là điều chưa từng thấy ở Mỹ. Nhiều chiến sĩ đấu tranh chống chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, bị giam trong các nhà tù của Mỹ cũng đã thuộc lòng một số bài thơ của Bác. Chẳng phải bây giờ người ta mới thuộc mà trước khi chúng ta xuất bản rộng rãi tập thơ đó, một số đồng chí Trung Quốc đã nhớ nhiều bài trong tập thơ đó.
Quách Mạc Nhược, nhà học giả nổi tiếng của Trung Quốc nhận xét: có một số thơ rất hay, nếu xếp chung vào tập thơ Đường, Tống e rằng cũng không dễ gì nhận ra. Theo Lỗ Tấn, thơ theo kiểu cổ đến nay phần nhiều mất hết sức sống, “tất cả những bài thơ hay đến đời Đường đã làm hết rồi'', thì đủ thấy trình độ Hán học cũng như thi tài của Bác uyên thâm xuất sắc đến mức nào rồi.
Ngoài “Nhật ký trong tù” ra Bác còn làm nhiều thơ bằng chữ Hán. Bác xen vào nhiều bạch thoại có khi sửa lại câu thơ xưa cho hợp với hiện thực ngày nay. Điều đó chứng tỏ Bác nhớ nhiều và nhớ lâu văn chương cổ điển của Việt Nam, Trung Quốc và vận dụng độc đáo, sáng tạo, linh hoạt trong tác phẩm của mình. Và cũng như trong nhật ký, ngòi bút của Bác chẳng bao giờ ngừng nghỉ, dù là viết chữ Hán đòi hỏi trí nhớ cao. Có thể nói là Bác đã “xuất khẩu thành thơ”. Mẩu chuyện nhỏ sau đây đã chứng tỏ điều đó.
Sau khi kết thúc cuộc đi thăm mười nước Cộng hòa Xôviết, 19 thành phố và thủ đô trong một tháng trời, sáng ngày l-8-1959, Bác sang thăm Trung Quốc. Trên máy bay, Bác thanh thản đọc sách và ngắm cảnh. Khi bay qua biển cát, đến núi Thiên San, thấy phong cảnh nên thơ Bác đã làm ngay một bài tứ tuyệt như sau:
Vọng Thiên San
Dao vọng Thiên San phong cảnh hảo
Tử hà bạch tuyết bao thanh san
Triệu dương sơ xuất xích như hỏa
Vạn đạo hồng quang chiếu thế gian.
Trông núi Thiên San
Xa xa trông núi Thiên San, phong cảnh đẹp
Ráng tía tuyết trắng ôm ly ngọn núi xanh
Mặt trời buổi sáng ló ra đỏ rực như lửa
Muôn tía ánh hồng soi khắp thế gian.
Bài thơ đã được Bác tạm dịch như sau.
Xa trông cảnh đẹp núi Thiên San
Ráng đỏ vây quanh, tuyết trắng ngàn
Sáng dậy mặt trời như lửa tía
Muôn hào quang đỏ chiếu nhân gian
Bác đã dịch, biên dịch hoặc biên soạn được biết bao nhiêu tư liệu quý báu nhằm phục vụ kịp thời cho cách mạng. Sau hơn ba mươi năm trời xa đất nước, Bác lại trở về. Trong chiếc vali mây của Bác (hiện còn ở Viện Bảo tàng cách mạng) chỉ vẻn vẹn có mấy thứ, trong đó có quyển Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô bằng tiếng Hán, Bác lược dịch quyển này làm tài liệu huấn luyện cán bộ. Trên chiếc bàn đá gần suối Lênin, dưới vòm si xanh, ngày ngày Bác ngồi cặm cụi dịch quyển này, và từ đấy “Tức cảnh Pác Bó ra đời”:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Khi dịch xong, Bác đã tổ chức “ăn mừng”: Bữa ăn hôm ấy có thịt và rau tươi.
Bác còn lược dịch những điểm cơ bản trong tư tưởng chiến lược, chiến thuật quân sự của Tôn Tử, nhà quân sự nổi tiếng 2000 năm trước đây của Trung Quốc, nhằm bồi dưỡng kiến thức quân sự cho mọi người. Và thế là, quyển “Phép dùng binh của Tôn Tử'' (Binh thư Tôn Tử) ra đời. Quyển này do Việt Minh xuất bản vào tháng 2-1945, nhưng nó đã được dịch từ trước đó khá lâu.
Bác còn biên soạn quyển ''Cách huấn luyện cán bộ quân sự của Khổng Minh''. Quyển này có đề ở ngoài bìa: “Hồ Chí Minh biên dịch và bình luận'', nói về tiêu chuẩn đức tài, tư cách đạo đức và phép dùng bình cơ bản của một người tướng. Khổng Minh là nhà quân sự nổi tiếng thời Tam Quốc.
Về nghe và nói, Bác cũng thành thạo, cho nên lắm khi ứng đối tài tình với kẻ địch, khiến chúng bối rối. Tiếng Hán (dù là xưa hay nay) ở trong tay Bác đã trở thành một công cụ lợi hại, với kẻ thù là một vũ khí sắc bén “quất vào mặt chúng những làn roi cháy bỏng”, như có người nước ngoài đã nhận xét, nhưng với bạn bè, anh em thì đó lại là phương tiện mầu nhiệm, là chiếc cầu hữu nghị để hiểu nhau hơn, cảm thông với nhau hơn, phục vụ nhiều hơn cho sự nghiệp chung của cách mạng.
Bác Hồ với tiếng Pháp
Năm 1923, nhà thơ Xôviết Ôxíp Manđenxtam gặp Bác. Bác nói với nhà thơ: “Vào trạc mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe những từ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái…Thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn náu đằng sau những từ ấy, nhưng trong những trường hợp cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người như dạy con vẹt. Chúng không cho người nước ngoài chúng tôi xem sách báo. Không phải chúng chỉ không cho đọc các nhà văn mới mà cả Rútxô và Môngtétxkiơ nữa cũng bị cấm''. “Vậy thì phải làm thế nào bây giờ?” Bác kết luận: ''Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài''.
Dù mới tiếp xúc với “Tây học”, với nền văn hoá tư sản và hệ tư tưởng tư sản, nhưng qua đoạn dẫn trên đây ta thấy Bác đã có cái nhìn sắc bén khác với những người bình thường. Hồi nhỏ, cụ Sắc luôn dạy các con phải ''biết mình biết người''. Vì thấm nhuần điều “biết mình biết người, trăm trận đánh trăm trận thắng'' nên Bác muốn đến tận sào huyệt của chúng (đến các “chính quốc” Pháp, Anh) để tìm hiểu. ''Tôi muốn đi ra ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta''.
Việc du học bị nghiêm cấm. Thế nhưng Bác vẫn tiên quyết ra đi với hai bàn tay trắng và một vốn tiếng Pháp ít ỏi học được trong nhà trường.
Mùa hè năm 1911, Bác đặt chân lên đất Pháp. “Tiếng Pháp là một trở ngại'' trong bước đầu đi tìm đường cứu nước, cứu dân của Bác. Bác hiểu ngay rằng, mình phải giao thiệp bằng tiếng Pháp để làm ăn sinh sống để học tập và hoạt động cách mạng. Nhờ động cơ học tập đúng đắn và mạnh mẽ đó nên Bác đã nhanh chóng tìm ra được nhiều cách học thông minh, sáng tạo. Ngay trên chuyến tàu sang Pháp. Bác đã tranh thủ lúc rỗi để học đọc và viết tiếng Pháp với hai người lính trẻ được giải ngũ trở về Pháp. Họ cho Bác mượn những quyển sách nho nhỏ bằng tiếng Pháp. Khi đến thành phố Lơ Havơrơ, Bác học tiếng với cô Sen. Tóm lại, những người xung quanh dạy Bác học. Muốn biết một vật nào đó tiếng Pháp gọi là gì, Bác chỉ vật ấy rồi hỏi, xong viết vào mảnh giấy, dán vào chỗ hay để ý đến nhất, để vừa làm việc vừa học được. Có khi viết chữ vào cánh tay. Tối đi làm về, Bác rửa tay rồi lại viết các chữ khác. Học được chữ nào, Bác ghép câu dùng ngay. Giăng Lôngghê, cháu ngoại Các Mác là chủ nhiệm báo Dân chúng, cơ quan của Đảng Xã hội Pháp (hồi ấy Đảng Cộng sản Pháp chưa thành lập) đã khuyến khích Bác viết về Việt Nam. Nhưng bấy giờ, Bác chưa giỏi tiếng Pháp. Muốn viết gì, Bác phải nhờ luật sư Phan Văn Trường. Ông là một nhà trí thức yêu nước, đậu tiến sĩ luật khoa ở Pari, nhưng ông không muốn ký tên ở dưới và không viết hết điều mà Bác muốn nói, Bác rất khó chịu vì mình kém tiếng Pháp. Bác nghĩ: ''muốn tuyên truyền cho nước ta, nhưng không viết được chữ Pháp. Làm thế nào bây giờ? Nhất định phải học viết cho kỳ được''. Bác làm quen với chủ bút tờ báo Đời sống thợ thuyền, Bác ngỏ ý muốn viết bài, nhưng ngại vì tiếng Pháp còn kém. Chủ bút bảo: “Điều đó không ngại, có thế nào anh viết thế ấy. Tôi sẽ chữa bài cho anh trước khi đưa in. Anh không cần viết dài; năm sáu dòng cũng được''. Viết xong bài, Bác chép thành hai bản, một bản giữ lại. Lần sung sướng nhất trong đời viết văn, làm báo của Bác là bài đầu tiên được đăng trên tờ báo Đời sống thợ thuyền. Năm ấy là năm 1917. Bác đã so lại xem đúng sai chỗ nào, toà báo sửa cho như thế nào. Sau này, khi thấy đã bớt sai, ông chủ bút lại bảo: “Bây giờ anh viết dài một tí, viết độ bảy tám dòng. Rồi cứ thế, Bác viết được cả một cột báo, có khi dài hơn. Lúc ấy người chủ bút (là bạn thân của Bác) lại bảo viết ngắn lại. Rút ngắn cũng khó như kéo dài. Nhờ kiên trì rèn luyện nên Bác đã thành công. Lần sung sướng thứ hai là khi mẩu chuyện về Pari của Bác được đăng. Thường thì trong ngày làm việc, Bác đọc vài trang tiểu thuyết để trau dồi tiếng Pháp và giải trí một chút. Thấy Tônxtôi viết giản dị, rõ ràng, Bác rất thích và cũng viết một bài phóng sự về khu phố công nhân nghèo khổ nơi Bác ở. Sáng nào cũng viết từ năm giờ đến sáu giờ rưỡi. Bảy giờ phải đi làm. Khi tiết trời rét buốt, ngón tay tê cóng. Sau một tuần cặm cụi, Bác hoàn thành tác phẩm đầu tiên của mình. Bác nói với các đồng chí trong Ban văn học toà soạn báo Nhân đạo rằng: ''Tôi rất sung sướng nếu bài viết của tôi được đăng, tuỳ các đồng chí đăng hay không đăng, nhưng dù thế nào thì cũng xin các đồng chí sửa lỗi tiếng Pháp cho tôi...''
Năm 1922, tờ Người cùng khổ (Le Paria) ra đời. Bác làm chủ bút, chủ nhiệm, giữ quỹ, phát hành và bán báo, việc nào cũng đòi hỏi dùng nhiều tiếng Pháp. Bác kể lại: “Các đồng chí người thuộc địa Á Phi viết bài quyên tiền, còn bao nhiều công việc mình đều bao hết”. Trụ sở đầu tiên của Bác ở số nhà 16 phố Giáccanlô, sau chuyển sang số nhà 3 phố Mácsêđê Patriácsơ ở quận 6 là một nhà cổ xưa ở Pari. Nơi đây, Bác làm việc để ra báo và cũng chính nơi đây là trụ sở của “Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa”. Bác là một trong những người sáng kiến ra tờ báo của hội này. Báo ra cả thảy được 38 số. Khổ lớn, tên báo bằng chữ Pháp đặt ở giữa, chữ Ả Rập bên trái và chữ Hán bên phải, do Bác viết. Báo này không có ban biên tập làm việc thường xuyên, vì ai nấy phải làm việc, sinh sống hoặc bận các công việc khác. Vì vậy, Bác nhiều lần được tập thể giao công việc sửa chữa bài vở và bán báo. Luật sư Mác Clanhvin Blôngcua, người đảo Guyađơlúp, trong Ban biên tập nhận xét rằng: “Anh Nguyễn Ái Quốc đã đóng góp rất nhiều cho tờ báo, anh viết khoẻ, có số viết tới hai, ba bài'', ''lời văn anh sắc bén, tư tưởng anh rõ ràng và mạnh mẽ'', ''xem và đọc những bài và tranh đó người ta thấy rõ tác giả có một tinh thần tiến công rất chủ động và rất thông minh''.
Người ta thường nhắc đến những bài của Bác trên Người cùng khổ với một lòng xúc động, mến phục: Nào là bài “Động vật học'' với giọng văn rất Pháp, đả kích sâu sắc bọn thực dân; “Vĩnh biệt vị vua chúa'' mỉa Khải Định lúc hắn sang dự đấu xảo ở Pháp, nào là ''Con rùa'' nói lên sự tham nhũng tàn bạo của một tên quan cai trị Pháp ở Việt Nam; Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu” mang tính chất một bài bút ký ''viễn tưởng”; nào là “Hands off China''... Có kỳ như số ra ngày l-8-1922 có đến ba bài viết và một bức vẽ của Bác.
Ngoài tờ Người cùng khổ ra, Bác còn viết cho nhiều tờ báo bằng tiếng Pháp nữa. Ví dụ, trên báo Nhân đạo, chúng ta thấy ''Vấn đề bản xứ''; ''Lời than vãn của bà Trưng Trắc''; “Con người biết mùi hun khói''; “Vi hành”. Riêng bài “Vi hành'' (Incognito) đăng ngày 19-2-1923, tác giả nói đây là trích những bức thư gửi cô em họ do tác giả tự dịch bằng tiếng Nam (tiếng Việt), nhưng chúng ta có cơ sở để đoán là truyện này ngay từ đầu đã được viết bằng tiếng Pháp.
Về sách của Bác, chúng ta chú ý đến quyển: Bản án chế độ thực dân Pháp. Đây là tác phẩm kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội, nó nêu ra những việc thật, người thật, dùng thuật ''Gậy ông đập lưng ông'' (trích lời người Pháp viết để làm tang chứng). Sách được viết bằng hình thức tiểu phẩm, làm thiên phóng sự điều tra mở đầu cho một nền văn học mới ở Việt Nam. Là văn kiện lịch sử nó cũng là tác phẩm văn học lớn bằng tiếng nước ngoài trong văn học sử Việt Nam.
Bác dùng tiếng Pháp rất linh hoạt. Trong quãng đời mười năm ở Pháp Bác đã diễn thuyết, nói chuyện, phát biểu ở nhiều nơi. Nhưng đáng chú ý nhất là lời phát biểu của Bác ở Đại hội Tua (năm 1920) và bản “Tham luận về dân tộc thuộc địa'' ở Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 5 (năm 1924). Hai lần phát biểu bằng tiếng Pháp đó chứng tỏ nhãn quan sáng suốt và sâu sắc về chính trị cũng tài năng tiếng nước ngoài của Bác, dường như Bác muốn nói gì, diễn tả như thế nào thì tiếng Pháp lúc đó đủ để phục vụ cho nhu cầu đó (ở Liên Xô còn giữ được bản ghi lời phát biểu bằng tiếng Pháp của Bác ở Đạị hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 5 và Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam đã chụp lại được bản ấy). Sau này, khi đã trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Bác vẫn còn dùng tiếng Pháp ở nhiều nơi, nhiều lúc, rất có hiệu quả.
Tháng 5 năm 1946, Bác chủ động đến nói chuyện với một số lính Pháp đóng trong thành Hà Nội. Lúc ấy, quan hệ giữa ta và thực dân Pháp khá căng thẳng. Nhiều đồng chí đã đi theo và bảo vệ Bác. Tướng Xalăng giở đủ ngón này ngón nọ ra với ý đồ “tác động tinh thần''. Thật đúng là Bác đang đi vào nơi hang hùm miệng rắn. Thế nhưng, Bác vẫn thản nhiên ung dung, dùng thứ tiếng Pháp điêu luyện “rất Pháp'' của mình để nói về tình yêu quê hương đất nước, về sự giải phóng nước Pháp khỏi bọn phát xít Đức, về nguyện vọng và ý chí của dân tộc Việt Nam là giành cho được độc lập, tự do… Lính Pháp vỗ tay hoan nghênh nhiệt 1iệt. Xalăng bị một cú bất ngờ, hắn sợ nguy cơ phản chiến, nên hốt hoảng vội mời Bác nghỉ với lý do 1à “Sợ Chủ tịch mệt” (!?).
Vài ngày sau, Bác sang Pháp bằng máy bay. Nhiều người lo cho Bác vì bấy giờ đã có một máy bay Pháp chở một vị lãnh tụ ở Trung Đông đâm vào núi. Thế nhưng, “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, lại cũng vì tin tưởng ở Đảng Cộng sản và lực lượng cách mạng ở Pháp nên Bác vẫn đi máy bay. Mấy tháng ở Pháp, Bác đã làm chấn động dư luận Pháp và thế giới, hết sức có lợi cho cách mạng. Có nhiều câu chuyện, ở đây chỉ xin nêu ra một mẩu chuyện có 1iên quan tới việc dùng tiếng nước ngoài của Bác.
Trong một buổi họp báo của Bác ở Pari có gần một trăm phóng viên các nước đến dự. Một nhà báo tò mò hỏi:
- Thưa ngài Chủ tịch, Ngài là Cộng sản phải không?
- Phải - Chủ tịch Hồ Chí Minh điềm đạm trả lời.
- Ngài đã tham gia phong trào kháng chiến?
- Đã.
- Bao lâu?
- Gần 40 năm.
- Hình như Ngài đã từng ở tù?
- Đã.
- Ở nhà tù nào?
- Ở các nhà tù khác nhau.
- Có lâu không?
Chủ tịch Hồ Chí Minh mỉm cười. Nhìn thẳng vào mặt nhà báo tò mò, Chủ tịch nói: - Ở trong tù, thời gian bao giờ cũng lâu cả. Trả lời đơn giản và bất ngờ. Đó là sự chế nhạo kín đáo hay là ý muốn ngắt lời nhà báo thiếu lễ độ nọ? Có một điều rất rõ, người Pháp, người Anh, người Mỹ đã hiểu được rằng con người có chòm râu nhọn ấy có thể mỉm cười ở Pari, Luân Đôn cũng như ở Hà Nội. Đó 1à nụ cười của một nhà tiên tri biết mở rộng biên giới của hiện tại.
Câu chuyện dưới đây do Giáo sư Trần Hữu Tước, anh hùng lao động, Viện trưởng Viện Tai - Mũi - Họng Việt Nam kể lại:
Trong thời gian đàm phán ở Pháp, hoạt động của Bác thật phong phú. Bác đọc nhiều báo và các bài nói về Việt Nam để nghiên cứu. Bác còn đi nghe hoà nhạc, xem vũ balê, tham quan cơ sở bảo tàng... Sau khi ký bản Tạm ước vào nửa đêm 14 - 9 - 1946, Bác cùng vài người nữa về nước trên một thông tin hạm dài hơn trăm mét của Pháp. Lúc qua vịnh Cam Ranh để về Hải Phòng, đô đốc Đácgiăngliơ lúc ấy thay mặt Chính phủ Pháp ở Đông Dương điện ra xin gặp, cho nên tàu ghé vào vịnh. Thì ra chúng bố trí rầm rộ. Hai thuỷ phi cơ bay lượn quanh chiến hạm bảy tầng lính thuỷ của Đácgiăngliơ. Đácgiăngliơ kéo hết các loại cờ, giương hết các nòng pháo. Bác chỉ đi với mỗi giáo sư Trần Hữu Tước lên tàu. Đối phó như vậy thật hiệu quả ngay. Khi ra cửa tàu đón, Đácgiăngliơ đã phải nói ngay với giọng cáo già: “Thưa Chủ tịch, đến tuổi tôi, tôi lại được học đi với thầy thuốc là... thượng sách!''. Bác chỉ mặc giản dị, thái độ thản nhiên, đường hoàng với phong cách người chủ ở đây, còn sự loè loẹt của chúng lại trở nên xa lạ, ngượng ngùng. Tiệc trên chiến hạm là một cuộc đấu trí để lưu ý xỏ xiên rằng Bác đang ngồi giữa hai tướng Pháp lừng danh (tức bị “đóng khuôn” kẹp chặt), giữa một bên là đô đốc thuỷ quân Thái Bình Dương, một bên là thống soái lục quân Viễn Đông Đácgiăngliơ lưỡi dẻo quẹo, vừa cười vừa nói: “Monsieur le président, vous voi la biên encadré par LArmeé ét la Marine (Chủ tịch thật bị “đóng khung” giữa lục quân và hải quân đó!). Hắn cố nói kiểu nhát gừng, tách riêng và nhấn mạnh những tiếng “bién encadré” (thật bị đóng khung). Nói xong Đácgiăngliơ dương dương tự đắc ý cùng đồng bọn cười khoái chí vì câu nói hiểm hóc đó. Nhưng rồi chúng cũng phải ngồi lịm đi khi Bác mỉm cười, ung dung trả lời ngay: “Mais, vous savez, Monsieur L Amiral, c'est le tableau qui fait la valeur du cadre!” (Nhưng mà Đô đốc biết đấy, chính bức hoạ mới đem lại giá trị cho chiếc khung!''). Hồi tưởng lại, câu nói của Bác như có một ý nghĩ tiên tri: Pháp thua nhưng ''vinh dự là thua Việt Nam''. Trong bữa tiệc, còn nhiều câu trả lời ý vị bằng thứ tiếng Pháp đúng giọng và điêu luyện của Bác ứng đối với bọn thực dân. Cuối cùng, chúng thấy thực là đau nên phải thôi cái trò chơi chữ ấy. Nhiều câu chuyện của Bác hồi đó nay đã trở thành những giai thoại diệu kỳ.
Bác Hồ với tiếng Anh
Qua tiếng Pháp, Bác học thêm tiếng Anh.
- Tại sao đi Anh?
- Bác nói là để học tiếng Anh.
Bác sang Anh có nhiều mục đích, nhưng chắc chắn cũng là để học thêm một thứ tiếng nước ngoài ở ngay trên đất nước nói tiếng đó. Bác muốn học được nhanh hơn, thuận lợi hơn nên sang Anh để có một môi trường tiếng Anh tốt hơn là ở đất Pháp. Tất nhiên, vẫn phải vừa làm vừa học. Ngày nay, đường phố Hâymakít lớn rộng giữa thủ đô Luân Đôn còn ghi dấu vết tiệm ăn khách sạn Cáclơtơn (Carlton Hotel), nơi khoảng năm 1914 Bác đã làm phụ bếp ở đấy. Khách sạn lớn nhất nước Anh hồi bấy giờ có ông ''vua bếp'' nổi tiếng là Étcốpphie được huân chương vinh dự. Cũng làm ở tiệm này có ông Nam, người đồng hương với Bác.
- Ai đưa anh đến đây, đến nước Anh?
- Tôi đến đây một mình để học tiếng Anh.
- Hay đấy, nhưng tiếng Anh rất khó học. Đã hai năm tôi ở thành phố này mà không biết hơn, ngoài hai chữ Yes và No (vâng và không).
- Phải học chứ. Chúng ta sẽ cùng nhau học.
Trước khi đến khách sạn này, Bác đã đi làm công việc đốt lò. “Ở đây thật đáng sợ'' vì luôn luôn ở trong cảnh “tranh tối, tranh sáng”, vì “trong hầm hết sức nóng, ngoài trời hết sức rét''. Không đủ quần áo nên Bác bị cảm, phải nghỉ việc luôn hai tuần. Khi Bác trả tiền thuê phòng, tiền bơ, bánh mì và tiền ''sáu bài học chữ Anh'' rồi trong túi chỉ còn vẻn vẹn có sáu hào rưỡi! Bác đã phải thắt lưng buộc bụng để học tiếng Anh trong một hoàn cảnh khó khăn như thế đấy!
Thường ngày, Bác phải làm từ 8 đến 12 giờ, chiều từ 5 đến 10 giờ. Phương tiện học là vài quyển sách và một cây bút chì. Sớm chiều, Bác đến ngồi ở Vườn hoa Hayđơ (Hyde Park) nơi có nhiều cây to, cột đèn cổ xưa để học. Vườn hoa Hayđơ là nơi mít tinh thị uy của nhân dân lao động ở Luân Đôn. Thật là một cuộc “gặp gỡ” kỳ thú! Trước kia, Lênin và Cơrúpxkaia cũng đã học tiếng Anh ở vườn hoa này! Có lần, khi đến thăm một lớp học. Bác nói rằng học tiếng nước ngoài phải kiên nhẫn, vượt khó, có lúc Bác phải ra Vườn hoa Hayđơ học vì ở đấy lạnh không buồn ngủ''.
Quả là như vậy, một ngày làm đến 9, 10 tiếng vất vả, ăn mặc thiếu thốn, tiếng Anh học đã khó lại thêm phương tiện, điều kiện chẳng có gì, Bác phải tự học, không thầy, không bạn, không trường, không lớp. Do đó, Bác phải tìm một chỗ học thuận lợi hơn, giúp thêm cho nghị lực quyết tâm và điều kiện học của mình hơn.
Đó là điều bình thường thôi. Dĩ nhiên, “hàng tuần vào ngày nghỉ”, Bác vẫn đi học tiếng Anh với một giáo sư người Ý.
Ở Anh không lâu, thời gian học cũng ngắn, thế nhưng trình độ tiếng Anh của Bác chẳng thua kém mấy so với tiếng Hán và tiếng Pháp là những thứ tiếng thành thạo của Bác. Bác học tiếng Anh chủ yếu trong thời gian này. Trong tờ báo Phong trào, số tháng 10 năm 1969, Rơnê Đipét có viết rằng: ''Trên đường đi tìm hiểu thế giới, ở mỗi nơi tàu dừng lại, “đối với anh Ba, đều là một trường đại học, ở đó anh đã trực tiếp thu lượm được những hiểu biết về sự tàn bạo của bọn tư bản. Tuy vậy, anh cảm thấy cần phải mở rộng kiến thức của mình bằng sách vở…Ở Luân Đôn, tại đây anh đã làm nhiều nghề khác nhau để có tiền ăn học. Trong thời gian chiến tranh, anh đã để thì giờ để nghiên cứu lịch sử thế giới, học tiếng Anh và suy nghĩ về tương lai của các dân tộc thuộc địa”.
Qua nhiều tư liệu, ta thấy Bác nói giỏi tiếng Anh, thông thạo văn hoá và lịch sử Anh, Mỹ - nhất là Mỹ. Bác đã dịch nhiều đoạn, nhiều câu rút trong báo chí Anh, Mỹ và các nước khác để đưa vào tiểu phẩm của mình. Tài liệu nói về Mỹ của Bác đã lên đến hàng mấy trăm bài với các thể loại khác nhau đề cập toàn diện và sâu sắc đến nước Mỹ (Bác ký nhiều tên khác nhau).
Qua thăm nhiều thành phố ở Mỹ như Oasinhtơn, Niu Yoóc, Bôstơn…xem nhiều sách báo Mỹ, những việc đó đã phần nào giúp Bác hiểu tường tận hơn để những dự đoán khoa học, kết luận cách mạng thiên tài hơn. Qua nghiên cứu ta thấy Bác là nhà lý luận về chủ nghĩa thực dân nói chung cũng như về chủ nghĩa thực dân kiểu mới nói riêng. Chính tiếng Anh (của Bác) đã giúp nhiều cho Bác trong hoạt động đó. Bác đã đọc biết bao nhiêu là sách tiếng Anh, nào là Uyliam Sếchxpia (1564 – l6l6), nhà viết kịch thời Phục hưng, nào là Sáclơ Đíchken (1812-1870), những nhà văn hiện thực phê phán vĩ đại, như là Hariétbítchơ Stao (1811- 1896)… cho đến đủ loại báo chí tiếng Anh như báoBang Oóclêăng mới báo tin tức hàng ngày ở Giắcxơn…Bản thân Bác cũng là một nhà báo đã từng viết bài bằng chữ Anh. Khi cùng làm việc với Bôrôđin, cố vấn Chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ cách mạng Quảng Châu. Bác giữ nhiều nhiệm vụ quan trọng trong đó có việc phiên dịch từ tiếng Hán sang tiếng Anh và ngược lại, Bác đã viết bài và phụ trách mục tuyên truyền cho tờ báo Quảng Đông ra hằng ngày bằng chữ Anh của Trung ương Quốc dân Đảng. Đó là những ngày cuối năm 1924 và đầu năm 1925. Trong thời gian ở Hương Cảng, Bác đã làm cho hãng Thông tấn Rớtsta của Anh và đã dành dụm tiền lương để nuôi anh em, đồng chí Việt Nam hoạt động ở đấy.
Bài viết chữ Anh của Bác thì nhiều lắm. Hiện nay, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng của ta còn giữ được Bản báo cáo của Bác gửi Quốc tế Cộng sản bằng chữ Anh (tháng 2 năm 1924), Bức thư Bác gửi Quốc tế Cộng sản (tháng 12 - 1924), bản “Đề nghị” (Proposition) và “Lời kêu gọi” (Appeal) bằng chữ Anh. Đó là những văn kiện lịch sử quan trọng.
Dưới sự chủ toạ của Bác, đại diện cho Quốc tế Cộng sản, Hội nghị thành lập Đảng họp vào ngày 3- 2-1930 đã thông qua các văn kiện của Đảng, trong đó có “Lời kêu gọi” này của Bác. Hiện nay ta vẫn chưa sưu tầm được bản gốc bằng tiếng Việt của văn kiện, do đó bản tiếng Anh của “lời kêu gọi'' kèm theo Bản báo cáo của Bác gửi cho Quốc tế Cộng sản (cũng vào dịp đó) có một ý nghĩa quan trọng đối với công việc nghiên cứu lịch sử Đảng .
Tiếng Anh còn được Bác dùng nhiều trong việc giao thiệp, tiếp xúc, họp báo. Qua cuốn sách của Trần Dân Tiên, ta được biết thêm một chuyện lý thú khác: “Cuối năm 1944, một chiếc máy bay Mỹ lượn trên Cao Bằng và bị hỏng máy. Phi công trẻ tuổi - trung uý Sao (Shaw) nhảy dù xuống một hòn núi gần tỉnh 1ỵ. Sao được Việt Minh cứu thoát.
Trước việc này Việt Minh đã chỉ thị cho các hội viên trong toàn quốc phải cố gắng giúp đỡ Đồng minh. Những người Việt Minh Nam Bộ đã liên lạc bí mật với nhiều lính Mỹ, Anh bị giam ở Sài Gòn nhưng vì không hiểu tiếng của nhau nên họ không thể thảo luận và làm những việc có ích hơn (…). Sao rất vui sướng khi được gặp Cụ Hồ gần biên giới. Từ một tháng nay nhịn nói, Sao bây giờ có thể tha hồ nói. Sao thỉnh cầu Cụ Hồ đi với mình đến Bộ Tổng tư lệnh không quân ở Côn Minh. Cụ Hồ vui vẻ nhận lời . Hai người chia tay sau năm ngày đi với nhau trên đất Trung Quốc (Tất nhiên là Sao đã được năm ngày tha hồ nói!). Bác đến Côn Minh (Vân Nam), người Mỹ gặp Bác để cảm ơn. Sau đó Bác đi Quảng Tây và gặp tướng Sennô (Chennault), Tổng tư lệnh Không quân Mỹ ở Trung Quốc. Qua nhiều ngày nói chuyện với tướng Sennô, với Đại tá Hêlioen (Heliwell), với Trung uý Sao,...Bác nắm được nhiều tình hình. Theo Giulơ Asơ trong cuốn Hồ Chí Minh - chuyện thần kỳ của Hà Nội, thì hồi ấy “trong khi chờ đợi, Cụ đã đồng ý dịch viết và dịch nói cho Bộ Thông tin chiến tranh của Mỹ” những tài liệu quan trọng lấy được của địch (tức của phát xít Nhật).
Qua tiếp xúc với nhiều hoạt động trên, Bác nắm được rất nhiều tin tức, Bác rất chủ động. Chúng phải tin, phục và kính nể Bác. Việt giúp Sao, việc đi thương lượng với phái bộ Đồng minh (Mỹ) ở Trung Quốc, việc nhận giúp đỡ các nạn nhân của Đồng minh thoát khỏi nanh vuốt phát xít Nhật 1à để thực hiện một sách lược phong phú và linh hoạt hết sức có lợi cho đấu tranh cách mạng. Hồi ấy Bác thường đến cơ quan Đồng minh Mỹ trong một khu rừng ở Việt Bắc, nhờ thạo tiếng Anh nên nghệ thuật ''tác chiến'' đối ngoại của Bác càng thêm tài tình. Theo R. Sáplên, trong Điều bí ẩn về cụ Hồ Chí Minh (Eaigma of Hồ Chí Minh) thì tháng 5 năm 1945 một trung uý Mỹ tên là Giôn nhảy dù xuống Việt Bắc với mục đích nhằm xây dựng một cơ sở giúp các cá nhân của đồng minh thoát khỏi vùng do phát xít Nhật chiếm đóng. Giôn đã sống và làm việc với Bác trong vài tháng.
Ngay lúc đó, Bác đã chuẩn bị cho bản ''Tuyên ngôn độc lập” vẻ vang của chúng ta sau này. Bác hỏi Giôn có thể nhớ một đoạn văn của bản ''Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ không? Anh ta trả lời rằng tôi là một người Mỹ bình thường, tôi không thể nhớ được. Tôi có thể gọi điện đến Côn Minh và sẽ có một bản thả xuống cho tôi''. Sau này Giôn rất khâm phục Bác: ''Cụ dường như thực sự biết (về bản Tuyên ngôn độc lập Mỹ) hơn tôi. Thực tế là, Cụ đã biết hơn tôi về hầu hết mọi thứ''. Mãi sau này, Giôn vẫn còn giữ hai lá thư bằng chữ Anh mà Bác đã gửi cho anh ta ở trong rừng ngay sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh. Trong thư ấy, Bác đã dùng cả những khẩu ngữ, ví dụ Bác dùng chữ Japs (mang nghĩa xấu, có nghĩa là bọn Nhật - phátxít).
Có lần, một vị Tổng thống của một nước bạn đến thăm. Ta đón tiếp nồng nhiệt. Khách cao tuổi đi không vững. Sau khi ôm hôn, Bác dìu khách đi chậm từng bước dọc theo tấm thảm nhung đỏ. Giản dị, chân tình và khiêm nhường, Bác đỡ vị khách lên bục. Khách nói tiếng Anh. Dù Bộ Ngoại giao ta đã bố trí người dịch giỏi, nhưng Bác không câu lệ thủ tục ngoại giao, nhằm tranh thủ chính trị nên đã dịch sang tiếng Việt cho mọi người nghe. Không khí gần lại. Giới ngoại giao ngạc nhiên và xôn xao. Việc làm ấy, bình thường không phải công việc của một chủ tịch nước, nhưng đã có sức cảm hoá lớn. Người ta thấy ngay vẻ ngạc nhiên, kính cẩn của các vị khách đối với ''người phiên dịch'' hiếu khách, quý bạn vĩ đại này. Ngày lên đường, trong diễn văn từ biệt, vị khách nhiều hơn Bác đến sáu tuổi và 1à người đứng đầu của một nước lớn này, đã kính trọng gọi Bác là ''người anh cả''.
Bác nghe tiếng Anh cũng thạo. Trước cách mạng, hồi còn ở Trung Quốc, Bác đã phải nghe máy thu thanh để theo dõi tin tức quốc tế nhằm phục vụ cho công tác cách mạng. Bác kể lại rằng: Việc nghe rađiô cũng không dễ, vì lần này là lần đầu tiên mó tay đến cái máy thu thanh, không biết đài nào phát, phát giờ nào và làn sóng nào Bác thức suốt năm đêm, vặn đi vặn lại tìm nghe. Đến khuya đêm thứ sáu mới nghe được đài Luân Đôn.
Qua một số mẩu chuyện trên, ta thấy Bác giỏi tiếng Anh về nhiều mặt, cũng vì vậy nên không ai lấy làm ngạc nhiên khi trong thiên hồi ký của mình, đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp có nhắc đến chuyện hồi còn hoạt động bí mật ở Trung Quốc nhiều đồng chí Trung Quốc ở Quế Dương cứ mong đồng chí Hồ Quang (một bí danh của Bác) đến công tác để dạy họ “nói tiếng Nga và tiếng Anh”.
Đồng chí Hoàng Xuân Sính (giáo sư, tiến sĩ toán học) cũng nhớ một kỷ niệm xa xưa khi mình còn niên thiếu (khoảng 1945-1946).
Bác đến thăm trường nữ trung học ở Hà Nội. Sính đang học bài tiếng Anh thì Bác vào, theo sau là cô Hiệu trưởng. Cả lớp bật dậy vỗ tay nồng nhiệt. Bác ra hiệu ra hiệu cho tất cả ngồi xuống và Sính được tiếp tục được đọc bài ghép vần. Giọng Sính không được bình thường vì cô bé xúc động trong niềm vui sướng bất ngờ. Vì thế Sính phát âm sai khá nhiều. Bác đến gần Sính và ôn tồn đọc lại cho nghe những câu trong bài. Sính chăm chú đọc theo Bác, nhưng cảm động nên vẫn đọc sai. Bác kiên trì chữa lại cho từng câu. Hơi nghiêng người về phía Sính, hai tay đưa lên cổ khích lệ, Bác nói dịu dàng: “Cháu đọc thế này mới đúng”.
Bác Hồ với tiếng Nga
“Ông Nguyễn được dẫn đến Khách sạn Quốc tế (…), ông Nguyễn rất bằng lòng được ở một khách sạn rộng rãi, ăn uống đầy đủ, sách báo không thiếu”.
Ông Nguyễn bắt đầu học tiếng Nga.
Hai ngày sau, một người Pháp trẻ tuổi, Pôn, đến tìm ông Nguyễn. Đây là một người bạn thân của ông Nguyễn (…)
- Anh đấy ư? – Pôn hỏi.
-Vâng, tôi đây – ông Nguyễn trả lời.
-Anh làm thế nào mà đến được?
-Như lệ thường thôi, bằng cách bí mật.
-Anh đến đây vào lúc đang buồn. Lênin vĩ đại vừa mới mất (…). Anh thấy xứ này thế nào?
-Tôi thấy rất rét. Ngoài ra không biết chuyện gì khác, vì tôi đã hứa với người cán bộ là không ra khỏi khách sạn.
- A! Đúng thế, ở đây rất nghiêm ngặt, vì có nhiều do thám ngoại quốc tìm cách lọt vào nước này.
- Còn anh Pôn, anh làm gì ở đây?
- Suýt nữa tôi quên nói cho anh biết nhiệm vụ của tôi. Chính bác Casanh đã bảo tôi đến đây xem có đúng anh không, và đưa anh đến Mạc Tư Khoa.
- Thế thì chúng ta đi ngay. Tôi không muốn mất nhiều thì giờ ở khách sạn này , mặc dầu thịt rán và thuốc lá rất ngon.
- Gavaris po russki? (Anh biết nói tiếng Nga rồi sao?)
- Đa! (Vâng)”.
Qua một số câu đối thoại trên đây, ta thấy Bác bắt đầu học tiếng Nga lúc mới đặt chân lên đất nước Liên Xô, đất nước của Lênin vĩ đại. Trải qua bao nhiêu nguy hiểm, gian lao, đến khách sạn này bình thường ra mà nói, người ta phải nghỉ ngơi một thời gian, thế nhưng Bác đãtranh thủ học tiếng Nga. Và chỉ trong một thời gian ngắn, Bác đã nghe và nói được một số câu thường dùng trong đời sống hàng ngày. Đó là một điều làm anh bạn thân của Bác phải ngạc nhiên. Cũng với tinh thần ham học hỏi đó, mà trước sau trong khoảng 5 năm ở Liên Xô, Bác đã có thể nắm được khá thành thạo thứ tiếng thuộc dòng Slavơ này, thứ tiếng mà có lần bác nói là “khó đọc lắm!”. Ta hiểu rằng tiếng Nga là một thứ tiếng khác xa với tiếng Việt, Hán và cả tiếng Anh, Pháp nữa. Nói chung chẳng có gì gần với tiếng Việt. Có người đã nói vui rằng: học xong sáu cách thì có một cách thứ bảy nữa là “cách chuồn!” để chỉ những ai đó học tiếng Nga không bền bỉ, thiếu quyết tâm. Nếu cố gắng thì mọi khó khăn đều có thể vượt qua được.
Anh hùng lao động Đỗ Chanh, người đã vinh dự được gặp Bác đã kể lại rằng:
Cuối tháng 4 năm 1956, khi kết thúc khóa học, anh chị em lớp cán bộ công nghiệp sắp đi thực tập ở nước ngoài vào thăm Bác. Bác hỏi lớp bao nhiêu người, có khỏe không, vui không…
- Các cô, các chú đi Liên Xô thì có được học tiếng Nga không?
- Có ạ.
- Học mấy tháng?
- Thưa Bác, bốn tháng ạ.
- Học có tốt không?
Tất cả ngập ngừng, không ai dám trả lời. Bác chỉ mỉm cười, chỉ một đồng chí ngồi gần:
- Chú nói xem nào: “ăn”.
Chả biết lúng túng thế nào, đồng chí đó phát âm sai, tiếng “ăn” gần như tiếng “tắm”. Tất cả cười, Bác cũng cười vui.
Bác có kinh nghiệm về học và dùng tiếng nước ngoài. Đó là một điều chắc chắn, riêng tiếng Nga chẳng hạn, Bác đều luôn lưu ý học và dùng tiếng Nga trong nhiều lĩnh vực hoạt động. Thời kỳ ở Liên Xô (từ năm 1933 đến năm 1938) là thời kỳ Bác có điều kiện trau dồi tiếng Nga hơn cả. Bác vào học trường bổ túc các lãnh tụ do Quốc tế Cộng sản mở. Bác lấy tên là Linốp, giống với tên gọi Nga. Khi viết bài bằng tiếng Pháp để gửi về nước, Bác lại lấy tên là Lin cho hợp với tên gọi Pháp. Bác cũng làm việc ở Viện Nghiên cứu lịch sử phương Đông của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản.
Theo đồng chí Nguyễn Khánh Toàn thì “Bác vào trường Lênin là trường Đảng cao cấp cho các lãnh tụ các nước ngoài”, rồi sau chuyển hẳn sang Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, đồng thời làm việc ở Quốc tế Cộng sản. Bác vào lớp học nghiên cứu sinh Ban Sử học của Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Bác cũng đồng thời “nhận phiên dịch ra tiếng Việt tài liệu”.
Bác đã từng viết rất nhiều bài cho một số báo chí Liên Xô như Đời sống công nhân Balinxki, tiếng còi, tạp chí Đỏ, Thời mới, Sự thật…Bác cũng từng đi nhiều nơi trên đất nước rộng lớn nhất thế giới này, từng tiếp xúc với nhiều người, nhiều tầng lớp. Vì thế Bác nói và nghe được tiếng Nga.
Theo nhà báo Thép Mới, người được đi cùng với Bác sang thăm Liên Xô năm 1955, thì một đồng chí ở Mạc Tư Khoa cho rằng: Từ trước đến nay những người nổi tiếng trên thế giới đến Liên Xô mà nói được tiếng Nga có đồng chí Môrít Tôrê (Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Pháp), nhà nghệ sĩ da đen người Mỹ Pôn Rốpsơn và nay có đồng chí Hồ Chí Minh nữa là ba.
Bác đã sang thăm lien Xô nhiều lần, đi nhiều nơi, đến đâu cũng nói một ít tiếng Nga. Riêng trường “Ngoại ngữ Hồ Chí Minh” ở Iếckút, Bác đã đến thăm mấy lần. Đây là một học viện dạy tiếng nước ngoài của Liên Xô mang tên Bác vào cuối năm 1969 và là trường kết nghĩa với Trường đại học Ngoại ngữ Hà Nội. Nhà trường còn giữ lại nhiều kỷ niệm đẹp về Bác. Các đồng chí Liên Xô vẫn còn nhắc lại với lòng xúc động về những buổi gặp Bác xưa kia. Chính tiếng nước ngoài mà Bác đã dùng làm tăng thêm bầu không khí ấm cúng trong tình đoàn kết quốc tế đó.
R. Cácmen, nhà điện ảnh Liên Xô, người làm bộ phim “Việt Nam trên đường thắng lợi”, đã được gặp Bác trong một căn nhà nhỏ ở Việt Bắc. Bác nói chuyện với Cácmen bằng tiếng Nga:
- Cụ học tiếng Nga như vậy có khó khăn không?
- Người cách mạng phải biết tiếng nói của Lênin!
M.Giulápxki, nhà văn và là nhà báo Ba Lan sang thăm Việt Nam, được gặp Bác nhiều lần. lần Giulápxki bước vào một căn nhà lợp rạ, tường quét vôi trắng, ông chưa kịp uống nước thì Bác bước vào và chào bằng tiếng Nga. Buổi nói chuyện than mật bắt đầu. Bác ra hiệu cho đồng chí phiên dịch không phải dịch nữa, rồi ngồi nghe đồng chí phóng viên báo Sự thật (Liên Xô) nói chuyện. Đôi khi Bác trả lời lại bằng tiếng Nga. Thỉnh thoảng Bác còn nói chuyện bằng tiếng Ý với phóng viên tạp chí Đoàn kết (Unita), cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Ý; bằng tiếng Anh với phóng viên báo Công nhân (Worker), cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Mỹ. Tất cả những người nước ngoài có mặt hôm ấy đều tỏ vẻ ngạc nhiên, khâm phục. Dường như đoán được điều đó, Bác mỉm cười nói bằng tiếng Pháp:
- Các nhà báo nước ngoài thường hay kể những chuyện phóng đại về tôi. Nhưng cũng có những chuyện đúng. Khi còn trẻ tôi có làm bồi bếp trên tàu, có đến Mỹ, Anh, Đức. Tôi cũng đã từng sống ở Pari và bắt đầu hoạt động cách mạng cũng các đồng chí Pháp.
Nhiều lần tôi qua Liên Xô, Trung Quốc. Ở đâu tôi cũng được công nhân dạy cho tiếng của nước họ. Tôi sống cùng với công nhân ở Ý, rồi ở cả châu Mỹ nữa…
Đới Hoàng, một nhà văn Trung Quốc, tác giả cuốn hồi ký “Ghi lại những ấn tượng về Chủ tịch Hồ Chí Minh” cũng nói lên những cảm tưởng tương tự. Nhưng thời gian xảy ra trước buổi gặp mặt trên ít tháng và không gian là một địa điểm kín đáo trong rừng sâu Việt Bắc. Đó là bữa tiệc liên hoan mừng chiến thắng Điện Biên Phủ. Đới Hoàng có nhiều ấn tượng đẹp đẽ về Bác, trong đó việc sử dụng tiếng nước ngoài của Bác là một “ấn tượng” sâu sắc, Bác đã dùng tiếng Nga, tiếng Pháp thăm hỏi tình hình sinh hoạt của các bạn bè quốc tế, hỏi về việc ăn uống, nhà ở, khí hậu ở rừng xứ nóng, đường sá khô ướt ra sao…Lúc nói với Đới Hoàng, Bác lại dùng tiếng Hán.
Bữa tiệc diễn ra trong bầu không khí tưng bừng náo nhiệt. Ai cũng muốn vui chung, muốn nói lên những cảm nghĩ đang rạo rực trong lòng mình, nhưng rồi đành chịu ngồi yên vì vướng phải “hàng rào ngôn ngữ”. Dường như đoán được điều đó, Bác nói “Nào các đồng chí có gì cứ nói hết đi, tôi làm phiên dịch cho các đồng chí”. Bác nhắc nhở mọi người ăn, giục “cạn chén”, “không được làm khách”. Câu nào cũng nói bằng đủ các thứ tiếng Nga, Hán, Pháp…
Trong thiên hồi ký của mình, Đới Hoàng cũng khâm phục nhắc đến việc Bác thường trực tiếp đọc và dịch những tác phẩm của chủ nghĩa Mác – Lênin, và đã dịch cuốn tiểu thuyết “Tỉnh ủy bí mật” của Liên Xô (tiếng Nga) sang tiếng Việt.
Lại nữa, có lần đoàn chuyên gia các nước anh em vào chúc tết Bác. Vì trường hợp đặc biệt nên lần này không có phiên dịch. Thấy mọi người có vẻ lúng túng, Bác mỉm cười bảo: “Thôi được, Bác sẽ dịch cho!”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói đến đâu, Bác dịch đến đấy bằng các tiếng Nga, Hán, Anh, Pháp. Các đồng chí chuyên gia nhìn Bác với vẻ khâm phục, trìu mến. Không khí càng thêm chan hòa, thắm tình hữu nghị anh em. Sau buổi tiếp khách, Bác bảo: Dịch không phải dễ đâu, tiếng nói là phải chính xác. Bác kể một đồng chí phiên dịch đã dịch câu “Chúc Hồ Chủ tịch mạnh khỏe, sống lâu” sang tiếng Việt là “Chúc Hồ Chủ tịch bách niên giai lão!” (Câu dùng để chúc cô dâu, chú rể trong các đám cưới. Tất cả mọi người có mặt đều phá lên cười vui vẻ, đồng thời ai nấy đều hết sức thấm thía những lời khuyên của Bác..
Bác thường dùng tiếng Nga để tiếp khách, nói chuyện thường chỉ dùng một số câu, nhưng cũng có khi Bác trò chuyện khá lâu với các đồng chí Liên Xô. Hai mẩu chuyện sau đây đã chứng tỏ điều đó.
Tơrachiacốp, thuyền phó thứ nhất tàu Giắcginxki (Liên Xô) phát biểu rằng: ngày 30-5-1957 là một ngày rất vui mừng của thủy thủ tàu này vì đồng chí Hồ Chí Minh đã tới thăm tàu, đặc biệt là “trong cuộc nói chuyện thân mật với anh em thủy thủ, đồng chí Hồ Chí Minh luôn dùng tiếng Nga, mà không cần phiên dịch, chúng tôi rất vui sướng khi thấy người nói tiếng Nga một cách thông thạo”.
Xécgâyđôrốp, Trưởng ban thuộc Viện Nghiên cứu toàn Liên bang về nghề đánh cá biển và bản đồ đại dương của Liên Xô đang công tác ở Việt Nam, đã đến gặp và trò chuyện thân mật với Bác vào một ngày gần cuối năm 1959. Trong thiên hồi ký viết mười năm sau, đồng chí cảm thấy sâu sắc rằng: Dù các buổi gặp gỡ có trôi qua theo năm tháng đi nữa, nhưng đồng chí vẫn nhớ những chi tiết nhỏ nhất của bầu không khí vô cùng ấm cúng và thân thiết mà Người đã tạo nên.
Những câu hỏi, những lời nhận xét của Người chứng tỏ rằng hiểu biết rất rõ, rất sâu sắc ngay cả các vấn đề nghiên cứu khoa học về biển, về đại dương”. “Đồng chí Hồ Chí Minh hỏi chuyện chúng tôi bằng tiếng Nga rất thạo”.
Tiếng nói đó cũng góp phần làm tăng thêm bầu không khí đoàn kết hữu nghị giữa các nước anh em. Nhà báo Úc Mancôm Xanmơn (đã từng dạy tiếng Anh ở Hà Nội hơn 3 năm), khi được tin Bác mất đã nhớ lại quang cảnh tiêu biểu, mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, diễn ra hồi 9 năm về trước. Xanmơn thấy Bác tươi cười từ trong hội trường đi ra, hai tay quàng vai hai người đi hai bên, đó là đồng chí Trưởng đoàn đại biểu Liên Xô sang dự Đại hội lần thứ 3 của Đảng Lao động Việt Nam, và đồng chí Trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc. “Chủ tịch Hồ Chí Minh rất hoạt bát. Cụ quay sang bên này nói bằng tiếng Trung Quốc, lại quay sang bên kia nói bằng tiếng Nga. Dáng người mảnh dẻ của Cụ có sức hấp dẫn hai vị khách. Cảnh tượng đẹp đẽ ấy diễn ra ngay trong ngày bế mạc Đại hội, lúc các đại biểu chia tay nhau ra về”.